02.01.2021

Các dữ liệu dịch tễ học của bệnh suy tĩnh mạch

PGS TS Nguyễn Hoài Nam
Giảng viên cao cấp Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh
BV Quốc tế Minh Anh

Chủ tịch Hội Tĩnh mạch học TP Hồ Chí Minh

Suy tĩnh mạch mạn tính – một vấn đề quan trọng cho y học và xã hội

Người ta đã tính rằng 35% số người làm việc và hơn 50% số người nghỉ hưu ở Châu Âu mắc bệnh tĩnh mạch (Journal of International Medicine). Trong đó 1% nam giới và 4,5% nữ giới bị suy tĩnh mạch chi dưới.

Khi tính rằng 73% bệnh nhân bị bệnh tĩnh mạch là nữ và trong 30 năm gần đây số lượng phụ nữ làm việc ngoài gia đình đã tăng lên một cách đáng kể thì sẽ thấy tầm quan trọng của chi phí cho các giờ làm việc bị mất và của số bệnh nhân nhập viện. Khảo sát dịch tễ học cho thấy bệnh tĩnh mạch làm tiêu hao tài chính rất lớn của các dân tộc. Các khảo sát trên cũng cho thấy tỷ lệ này phát bệnh thấp hơn ở các nước đang phát triển. Quan sát đã cho chúng ta thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa lối sống và bệnh tĩnh mạch.

Suy tĩnh mạch – Bệnh ảnh hưởng đến tỷ lệ lớn những người trưởng thành.

Chi phí cho điều trị rất cao

1.5% đến 2% tổng ngân sách y tế chi phí cho bệnh suy tĩnh mạch mạn tính. (Chi phí khổng lồ hàng năm cho bệnh tĩnh mạch theo tạp chí (Lancet):

  • Anh: 290 triệu bảng Anh
  • Pháp: 780 triệu quan Pháp
  • Đức: 2.420 triệu Mác Đức
  • Ý: 1.638 tỷ Lia
  • Tây Ban Nha: 17.240 triệu Pesetas

Một phần lớn chi phí này dùng để điều trị các biến chứng của suy tĩnh mạch mạn tính như giãn tĩnh mạch và loét dinh dưỡng do bệnh tĩnh mạch.

Các yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ cho bệnh giãn tĩnh mạch có thể được xếp theo thứ tự quan trọng như sau:

  • Giới tính (phụ nữ bị nhiều hơn)
  • Cách sống và các hoạt động trong công việc
  • Thể trọng
  • Thai nghén (số lần mang thai và khoảng thời gian giữa 2 lần mang thai)
  • Chế độ ăn kiêng
  • Chủng tộc
  • Dùng những loại thuốc có nguy cơ cao

Suy tĩnh mạch là một bệnh lý nhiều yếu tố nguy cơ

Di truyền là mẫu số chung: một số người về di truyền có thể mắc bệnh này. Điều này hiện nay đã được biết là do thay đổi về enzyme trong các mô liên kết. Nếu tính luôn các biến chứng của bệnh giãn tĩnh mạch và giãn tĩnh mạch thứ phát do tiến trình viêm tĩnh mạch (huyết khối), thì cần mở rộng danh mục các yếu tố nguy cơ bao gồm phụ nữ cho con bú, phẫu thuật, khiếm khuyết gia đình và thay đổi trong các thành phần của tiến trình đông máu.

Nữ giới dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trên hơn nam giới (tỷ lệ giữa nam : nữ là 1:2 đến 1:3). Sự khác biệt này có thể do các hormone (estrogen, progesterone), thai nghén, đứng lâu, khối lượng cơ thấp hoặc sử dụng giày không thích hợp.

Phụ nữ có nguy cơ đứng lâu khi làm việc (các xí nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp nhuộm…) nguy cơ còn tăng lên nếu thêm vào đó các công việc nội trợ.

Tăng trọng là một yếu tố nguy cơ vì lực tác động từ phía trước để hút máu về bị giảm (cơ hoành ở vị trí hít vào) và các dòng trào ngược ly tâm phát sinh từ áp lực ở ruột lên các tĩnh mạch hông: không có áp lực nào ở ổ bụng ảnh hưởng trực tiếp đến chỗ nối tĩnh mạch hiển – đùi vì tĩnh mạch chủ dưới không có van và các tĩnh mạch hông có rất ít hoặc không có van. Những người béo phì thường áp dụng chế độ ăn kiêng và ăn rất ít chất xơ. Điều này dẫn đến táo bón và hồi lưu do áp lực khung chậu.

Thời kỳ thai nghén bao gồm một cơ chế dẫn tới sự thay đổi trương lực tĩnh mạch do progesterone và tử cung mang thai chèn ép các tĩnh mạch hông và tĩnh mạch khung chậu. Mặc dù chưa chứng minh được là có mối liên quan trực tiếp giữa số lần mang thai và các tĩnh mạch giãn, những khoảng cách giữa 2 lần mang thai càng ngắn thì yếu tố nguy cơ càng tăng.

Chủng tộc có ảnh hưởng ít nhiều đến bệnh này trừ khi chúng được kết hợp với sự phát triển về kinh tế (các nước phát triển) và thay đổi cách sống.

Thuốc ngừa thai cũng là một yếu tố nguy cơ như thai nghén.

Phẫu thuật có thể gây biến chứng (huyết khối tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch huyết khối). Tuy vậy, gần đây, tầm quan trọng của yếu tố nguy cơ này đã giảm bớt.

Các yếu tố nguy cơ đồng thời cho bệnh suy tĩnh mạch: Béo phì, đứng quá lâu, thay đổi trọng lượng, giới tính, thai nghén, phẫu thuật,…

Nguyên nhân có thể do sự gia tăng phẫu thuật bệnh nhân ngoại trú hoặc dự phòng heparin. Thay đổi các yếu tố đông máu, thường là do di truyền có thể làm gia tăng các yếu tố nguy cơ (thiếu antithrombin III, protein C, protein S, thay đổi chức năng tiểu cầu …)

Về thống kê, chưa có những kết luận hiển nhiên là huyết khối tĩnh mạch sâu làm gia tăng hay làm giảm các yếu tố nguy cơ hoặc phái nào dễ bị mắc bệnh hơn. Mặc dù 1/3 các trường hợp huyết khối có thể được chẩn đoán trên lâm sàng, những tiến bộ trong các phương pháp cận lâm sàng trong thập niên vừa qua (siêu âm Doppler, siêu âm nhịp, chụp nhấp nháy tĩnh mạch) đã góp phần vào việc chẩn đoán một số bệnh trong 2/3 trường hợp còn lại chưa được chẩn đoán đúng mức.

BVQT Minh Anh